Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo (Thích Tâm Thiện)


Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật. Ở đây, diễn dịch là sự diễn đạt bản ý của Phật và xây dựng là sự kiến lập thành hệ thống đặc thù của các vị Tổ sư, và luận sư Phật giáo trên cơ sở phù hợp với những giáo huấn của Phật. Do đó, có thể phân chia các giai đoạn về sự hình thành và phát triển của tâm lý học Phật giáo như sau:


1- Thời kỳ Đức Phật (563-463 B.C) và Phật giáo Nguyên thủy


- Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) là thời kỳ Đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài diệt độ khoảng 100 năm, như vậy thời kỳ này chỉ kéo dài từ 150 đến 200 năm.

Trong thời kỳ này, những giáo lý của Phật được xác định cụ thể trong giáo thuyết về 12 Nhân duyên hay Duyên khởi (Paticcasamupàda), 5 uẩn (Skandhas) và 4 Thánh đế (Cattàriàriyasaccàni) (bao gồm 37 phần hộ đạo hay Đạo đế).

Do đó, đứng về góc độ triết học và tư tưởng, thì nội dung Phật giáo hàm chứa trọn vẹn trong 12 nhân duyên, 5 uẩn và 4 Thánh đế, bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động (tu tập), thế gian và xuất thế gian. Nói khác đi, 12 nhân duyên, 5 uẩn và 4 Thánh đế được biểu thị cả hai mặt phương tiện và cứu cánh, hay tương đối và tuyệt đối trên cùng một thực tại-hiện hữu. Đây là nền tảng của cả tư tưởng triết học và đời sống thực tiễn - Phật giáo.

Về nội dung của những giáo lý trên, Đức Phật trình bày về con người và thế giới thực tại khách quan theo nguyên lý Trung đạo (Majjhimà - patipadà) bất khả phân ly giữa Danh (tâm lý) và Sắc (vật lý), hay giữa Chân lý công ước (Conventional truth) và Chân lý tuyệt đối (Absolute truth). Nguyên lý này được Nagarjuna, qua "Trung quán luận" (Màdhyamikasàstra) gọi là nguyên lý Nhị đế hay Bất nhị (Advaya). Đây cũng là nguyên tắc thuyết giáo mà Đức Phật đã vận dụng trong suốt cuộc đời hành đạo của Ngài.

Đặc biệt trong giáo lý 12 nhân duyên, Đức Phật trình bày về con người như một tiến trình hiện hữu (process of becoming) của vòng tròn sinh hóa của cả tâm lý và vật lý qua hình thức của:

1/ Vô minh (Ignorance): Sự mê muội, bất giác và cuồng si của tâm thức.

2/ Hành (Karma-formations): Cơ cấu của các hoạt động tâm lý.

3/ Thức (Consciousness): Tri giác - hiện hữu (thức không thể hiện hữu ở quá khứ và vị lai).

4/ Danh - sắc (Corporeality and mentality): Danh là những gì thuộc về tâm lý, sắc thuộc về vật lý (vật chất).

5/ Lục nhập (Six bases): sự tương tác và hội nhập giữa 6 quan năng (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức) với 6 đặc trưng của thế giới thực tại khác quan (6 trần) bao gồm: sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (hương thơm), vị (mùi vị), xúc (xúc giác, xúc chạm) và pháp (tất cả sự có mặt của thế giới thực tại khách quan của sự vật, hiện tượng).

6/ Xúc (impression): sự giao thoa giữa ba thế giới: (a): các quan năng hay "căn" (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức - thuộc chủ thể nhận thức). (b): Các đối tượng của quan năng hay "trần" (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp - thuộc đối tượng được nhận thức) và (c): sự sinh khởi của tri giác hay nhận thức thông qua sự giao tiếp giữa chủ thể nhận thức (các quan năng) và đối tượng được nhận thức (các trần cảnh - tức thế giới thực tại, khách quan) hay còn gọi là "thức" (bao gồm: tai-nghe, mắt-thấy, mũi-ngửi, lưỡi-nếm, thân-cảm giác, và ý thức- nhận biết hay lĩnh hội).

7/ Thọ (feeling): sự cảm nhận, cảm thọ về vui (lạc), buồn (khổ) và trung tính (không khổ, không lạc).

8/ Ái (Craving): sự yêu thích và đam mê...

9/ Thủ (Clinging): sự lưu luyến, bám víu, cố chấp ...

10/ Hữu (Process of becoming): sự hiện hữu của tiến trình "sinh tồn" trong tương quan giữa chủ thể và đối tượng, giữa vật lý và tâm lý... theo một trong ba thể cách và trạng thái của tâm lý, bao gồm: (a) Dục hữu (hiện hữu từ / về dục vọng, khát vọng, ái dục, dục tính...), (b) Sắc hữu (hiện hữu từ / về thế giới sắc tướng, vật chất, vật lý, (duy lý)...) và , (c) Vô sắc hữu (hiện hữu từ / về thế giới phi vật thể, phi vật chất, (duy linh, phi tưởng)...)

11/ Sinh (Birth): sự sinh thành, giáng sinh, xuất sinh...

12/ Lão - tử (Old age - and - death): sự già nua, tử biệt hay biến dị và tan hoại....

Trên đây là nội dung của 12 chi phần nhân duyên, và, khi một chi phần (như vô minh) hiện khởi thì toàn bộ 12 nhân duyên cùng khởi - đây là con đường duyên khởi (hay lưu chuyển). Ngược lại, khi một chi phần (như vô minh) đoạn diệt thì toàn bộ 12 nhân duyên đoạn diệt. Đây là con đường hoàn diệt hay còn gọi là Diệt đế (Nirodha - àriyasacca) - Niết bàn. Tuy nhiên, Niết bàn không có nghĩa là tiêu tan tất cả, mà trên cơ sở cơ bản nhất, đó là sự đoạn diệt tham, sân, si hay là vô minh. Đức Phật chứng đắc Niết bàn tối thượng ngay khi Ngài còn sống !

Như thế, qua nội dung của 12 nhân duyên, ta có thể xác định thế nào là tâm lý học Phật giáo thời Nguyên thủy.

Nó quan trọng đến nỗi Đức Phật, trong Tương Ưng I, tuyên bố rằng: "Nếu không liễu tri (biết rõ) về năm uẩn hay 12 nhân duyên, thì không thể thoát ly sinh tử luân hồi". Ở đây, năm uẩn bao gồm: sắc, thọ tưởng, hành, và thức. Nó tương tự như 12 nhân duyên:

12 nhân duyên = Năm uẩn
Vô minh và hành = Hành uẩn
Thức = Thức uẩn
Danh sắc = Năm uẩn
Thọ = Thọ uẩn
Ái, thủ, hữu = Hành uẩn
Sinh, lão-tử = Năm uẩn

Như thế hệ thống tâm lý giáo dục Phật giáo thời nguyên thủy được Đức Phật trình bày rất cụ thể và rõ ràng qua giáo lý 12 nhân duyên và 5 uẩn theo nguyên tắc của 4 Thánh đế (Khổ đế [kết quả], Tập đế [nguyên nhân], Diệt đế [kết quả] và Đạo đế [nguyên nhân]). Đây là phần trọng tâm của giáo lý đạo Phật, cũng là phần giáo lý nhất quán và xuyên suốt cả lịch trình tư tưởng Phật giáo, từ Nam truyền đến Bắc truyền, từ nguyên thủy cho đến ngày nay với khoảng thời gian hơn 25 thế kỷ qua.

2- Thời kỳ Phật giáo Abhidhamma (271 B.C - 200 AD)

Phật giáo Abhidhamma (luận thư) là thời kỳ Phật giáo được phân chia theo nhiều hệ thống, bộ phái khác nhau. Theo nhiều nguồn sử liệu, thời kỳ này Phật giáo được phân thành 20 bộ phái, và đại biểu chính thức là Thượng tọa bộ (Sthaviravada) và Đại chúng bộ (Màhasànghika). Sự phân hóa này diễn ra song song với các thời kỳ kết tập kinh tạng Phật giáo. Có 4 thời kỳ chính như sau:

a) Lần thứ I: Sau Phật diệt độ khoảng một tuần, đại hội kết tập này do ngài Đại Ca Diếp (Maha-Kacyapa) làm chủ tọa, đại biểu gồm có 500 vị A La Hán, tập hội tại thành Vương Xá (Ràjagaha), kinh đô nước M Kiệt Đà (Magadha)

b) Lần thứ II: Sau Phật diệt độ 100 năm, đại hội kết tập này do các ngài Revata, Sàmbhùta, Yasa Sumana, Khùjjasobhita, Sàlha, Vàsabhagàmi, và Sabhakàmi làm chủ tọa đoàn, đại biểu gồm có 700 vị A La Hán, tập hội tại thành phố Tỳ-xá-lỵ (Vesali). Tại đại hội này, giáo đoàn Phật giáo chính thức được chia thành hai bộ: Thượng tọa bộ và Đại Chúng Bộ (sau đó, từ hai bộ này tiếp tục phát sinh ra 20 tiểu bộ).

c) Lần thứ III: Sau Phật diệt độ 218 năm (khoảng năm 325 trước Tây lịch), đại hội kết tập này do vua Asoka tổ chức và tài trợ. Vua mời ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputa-tissa) tại núi Ahogànga làm chủ tịch hội nghị. Đại biểu gồm có 1000 vị Tăng sĩ được tuyển chọn, và tập hội tại thành Hoa Thị (Pataliputra).

d) Lần thứ IV: Sau Phật diệt độ 400 năm (khoảng đầu thế kỷ thứ II Tây lịch), đại hội kết tập này do vua Kaniska tổ chức và tài trợ, cùng với sự cộng tác của ngài Hiếp Tôn Giả (Parsva). Đại hội này do ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tịch, chủ tọa đoàn gồm các vị Đại đức Dharmatràta, Ghosa, Baddhadeva, và Parsva. Đại biểu gồm 500 vị đại học giả uyên bác, thông đạt cả tam tạng. Đại hội được tổ chức tại tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana-Samgharàma) thuộc nước Kasmitra.

Nguyên nhân của sự kết tập kinh điển và phân hóa giáo đoàn thành các bộ phái là do quan điểm bất đồng, sai biệt về giáo lý của Phật trong sự nhận thức của các vị đệ tử. (40)

Về khái niệm Phật giáo Abhidhamma (A-tỳ-đạt-ma) hay Phật giáo Luận thư, là do các bộ phái Phật giáo có những quan điểm khác nhau về giáo lý của Phật. Và những quan điểm đó được trình bày thành hệ thống triết luận tư tưởng riêng biệt của từng bộ phái. Do đó, đây là thời kỳ phát sinh các Luận thư - sự giải minh về giáo lý của Phật theo quan điểm của các vị minh triết Phật giáo cách thời Đức Phật một khoảng thời gian lâu dài, nên gọi là Phật giáo Abhidhamma.

Về sự hình thành và phát triển của Phật giáo Luận thư được học giả Kimura Taiken (41) ghi nhận như sau: "A-tỳ-đạt-ma, tức là mục đích "đối pháp", có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa (của Phật) lại, rồi đem phân loại, định nghĩa, giải thích và phân biệt. Như vậy, các phương pháp nghiên cứu đó dù cho không có sự hưng khởi của bộ phái, nó cũng có khả năng phát sinh. Không những thế, chính trong khi áp dụng phương pháp nghiên cứu đó, tự nhiên đã đưa đến sự bất đồng ý kiến làm nguyên nhân cho sự phân phái".

Và Kimura Taiken trình bày về hướng phát triển của Phật giáo Luận thư, có thể tóm tắt như sau:

a) Nguồn gốc và sự hình thành. Luận thư, trước hết, phát sinh từ những lời giáo huấn rõ ràng, trong sáng, rất minh bạch, dung dị... của Phật và đời sống minh triết, thánh thiện của Ngài. Luận thư lúc đầu vốn được xem là phương pháp nghiên cứu giáo huấn của Phật, do đó, đối tượng nghiên cứu là kinh - hay lời dạy được nói ra bởi chính Đức Phật. Ở đây, Luận thư không có địa vị độc lập mà hoàn toàn phụ thuộc vào kinh. Luận thư có thể được xem như là kinh được diễn đạt rộng bởi các vị đệ tử của Phật. Tuy nhiên, về mặt lịch sử kết tập, thì chỉ có Kinh và Luật là rõ ràng, còn Luận thư thì ít được đề cập đến, chỉ có cá nhân san định hoặc trứ tác.

b) Sự phát triển. Theo đánh giá của Kimura Taiken (42), có thể chia sự định hình của Luận thư Abhidhamma qua bốn giai đoạn:

* Giai đoạn kết tập: là giai đoạn luận thư hóa kinh (giáo huấn của Phật) qua phương pháp biên tập thời đó của Giáo hội, chẳng hạn như bộ Tăng Nhất A Hàm, Tạp A Hàm, v.v... Nói chung, ở giai đoạn kết tập, thì Luận thư vẫn giữ hình thức của khế kinh.

* Giai đoạn giải minh giáo huấn của Phật: Giai đoạn này Luận thư không còn ở hình thức khế kinh nữa, mà đã chuyển sang định nghĩa, phân loại, phân biệt và chú giải giáo huấn của Phật. Lúc này, khế kinh chỉ đóng vai trò bối cảnh, tuy nhiên, Luận thư vẫn chưa độc lập bởi những kiến giải (deconstructions) mới, mà chỉ tập chú vào nội dung như đã được nói trong khế kinh.

* Giai đoạn độc lập hóa: Giai đoạn này, Luận thư đã rời bỏ khế kinh, không còn thảo luận về những lời giáo huấn của Phật một cách riêng lẻ nữa, mà đã đi sâu vào thể tài độc lập, lấy các đề mục của kinh làm chủ đề và phân tích, biện giải, giải minh theo qui tắc của Luận thư (nghiên cứu và phân tích văn bản). Đây là lý do phát sinh nhiều quan điểm, nhiều luận giải độc đặc, đa thù theo tính cách và chủ trương của mỗi bộ phái.

* Giai đoạn học thuyết hóa: Đó là giai đoạn toát yếu hóa và cương yếu hóa về những luận giải của Luận thư, làm cho chủ trương của mỗi bộ phái rõ ràng, minh bạch, và mỗi bộ phái thì có những học thuyết riêng - như "Thắng pháp tập yếu luận" của Anuttara, "Câu xá luận" của Vasubandhu v.v... Giai đoạn này diễn ra khoảng thế kỷ thứ II, thứ III sau Tây lịch, cũng là thời kỳ các bộ phái Hinayàna được thành lập.

c) Phương pháp xử lý của Luận thư:

Lúc đầu, Luận thư là sự tập hợp các câu kinh và các giải thích về các câu kinh đó. Ở thời điểm này, kinh (lời dạy cụ thể của Đức Phật) được xem là chứng lý tối thượng và tuyệt đối của Luận thư. Tuy nhiên, Luận thư không chỉ được dừng lại ở đó mà nó còn đi xa hơn nữa là giải minh toàn bộ tư tưởng được hàm chứa trong một hoặc nhiều câu kinh cụ thể. Do đó, phương pháp xử lý này đưa đến sự đi sâu vào phê phán hoặc phân tích, đánh giá, thẩm định... về nội dung của kinh. Sự kiện này một mặt vừa làm cho kinh trở nên phong phú, nhưng mặt khác có lúc nó cũng đi quá đà và thoát ly hẳn ý kinh. Đây là lý do "Luận đại tỳ bà sa" (Abhidhamma - màhavibhàsà - sàstra) quyển 51 của Hữu Bộ nói rằng: "Kẻ nào chấp chặt vào từ lời kinh mà không thông đạt được chân lý của nó thì gọi là trư văn Sa môn (kẻ chấp vào văn tự)". (43) (xem tóm tắt một số nội dung của luận thư ở phần sau).

3- Thời kỳ Phật giáo Mahayama (Đại thừa)

Sau Phật diệt độ khoảng 800 năm, tức vào khoảng thế kỷ thứ III Tây lịch, có các bậc Đại luận sư như ngài Nagarjuna (Long Thọ), Nàgasena (Na Tiên), Vasumitra (Thế Hữu) và Asvaghosa (Mã Minh) v.v... ra đời; và đây là những gương mặt vĩ đại phát huy giáo nghĩa Mahayana (Đại thừa) trong lịch sử tư tưởng, triết học Phật giáo. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ IV Tây lịch, có ngài Asanga (Vô Trước) và Vasubandhu (Thế Thân). Đây là hai vị Đại luận sư (anh em ruột) tiêu biểu cho dòng triết học Duy thức - tức tâm lý học Phật giáo - Mahayàna.

Đặc điểm của thời kỳ này là sự ra đời của hàng loạt các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v... cũng như các bộ Luận thư trứ danh như: "Du già sư địa luận" (Yogàcarya-bhùmi-sàstra), "Nhiếp Đại thừa luận" (Mahàyànasampari-graha-sàstra), "Duy thức tam thập tụng luận" (Vidyàmàtrasiddhi-tridasa-sàstra-kàrika) v.v...

Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản của Phật giáo Mahayana và thời kỳ Hinayana (bao gồm thời kỳ Abhidhamma) là các luận thư và kinh tạng của Phật giáo Mahayana hoàn toàn không mâu thuẫn, khác biệt nhau về nội dung giáo lý. Sự giống nhau về ý nghĩa (hay bản ý của Phật) trong kinh tạng và luận thư của Mahayana là điểm độc đáo và rất sáng tạo của các nhà Đại thừa (Mahayanists).

Ở đây, cần ghi nhận rằng, tính chất cơ bản trong nội dung giáo lý như được trình bày trong các hệ thống kinh tạng và luận thư của Phật giáo Mahayana cũng là những gì được hàm chứa trong nội dung giáo lý của Phật giáo thời Nguyên thủy (Theravada), hay nói cụ thể là trong kinh tạng Nikaya và A Hàm; đây là điểm nhất quán và xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Phật giáo. Và điểm khác biệt duy nhất của tạng thư Mahayana so với tạng thư của Theravada là cách trình bày và sự mở rộng ý nghĩa về Phật, Pháp và Tăng theo quan điểm phóng khoáng và đa thù giữa chân đế và tục đế; cả hai xuất hiện như một tổng thể bất khả phân ly. Do đó, ở tạng - thư của Mahayana không có sự chống trái về mặt nội dung tư tưởng.

Một điểm đặc sắc khác được phô diễn trong tạng-thư của Mahayana là giữa kinh tạng và luận thư bổ sung cho nhau và cùng tập chú về một thế giới tâm lý của cả sự thanh tịnh và cấu uế. Điều này được cụ thể qua các học thuyết trung tâm của kinh tạng và luận thư. Tỉ dụ, kinh Bát Nhã lấy "Vọng tâm Duyên khởi" làm tiền đề đi vào hiện quán, kinh Hoa Nghiêm thì lấy "Thanh tịnh tâm duyên khởi" làm tiền đề, Duy thức học thì đi trực tiếp và bao quát các vấn đề về tâm lý v.v... Sự bổ sung và cùng chuyên chú vào thế giới của TÂM trong kinh tạng và luận thư Mahayana này cho thấy tính chất phong phú và đa dạng về hệ thống phân tích tâm lý học Phật giáo trong tư tưởng Mahayana.

4- Sự tập thành của Luận thư (Abhidhamma)

Như đã trình bày, luận thư Phật giáo ra đời song song với quá trình kết tập kinh tạng và phân hóa giáo đoàn. Tuy nhiên, vào thời kỳ kết tập lần thứ nhất, luận thư chưa xuất hiện. Đến thời kỳ kết tập lần thứ hai, luận thư đã xuất hiện nhưng chưa độc lập thành một hệ thống riêng biệt, còn tùy thuộc nhiều về kinh tạng. Cho đến khi Thượng tọa bộ chính thức ra đời, thì luận thư mới thực sự được thành lập thành một tạng riêng biệt (trong ba tạng Kinh - Luật - và Luận) của Phật giáo.

Về luận thư của Phật giáo Hinayana, có thể tóm tắt một số luận thư nổi tiếng của Thượng Tọa bộ như sau:

a) Nhân thi thiết túc luận (Abhidhamma-prajnàtipada-sàstra) gồm 18.000 bài tụng do ngài Ca Chiên Diên sáng tạo.
b) Giới thân túc luận (Abhidhamma-harma-dhàtukàyapada-sàstra) gồm 3 quyển do ngài Thế Hữu biên soạn.
c) Phát trí luận (Abhidhamma-jnànaprasthàna-sàstra) gồm 20 quyển, do ngài Ca Đa Diễn Ni Tử (44) sáng tác. Đây là bộ luận nền tảng của Thượng Tọa bộ.
d) Tập dị môn túc luận (Abhidhamma-sanjitiparyàpàdà-sastra) gồm 20 quyển, do ngài Xá Lợi Phất chế tác (trong lúc Đức Phật còn tại thế?)
e) Uẩn túc luận (Abhidhamma-dharma-skandhapàda-sàstra) gồm 12 quyển, do ngài Mục Kiền Liên sáng tác.
f) Phẩm loại túc luận (Abhidhamma prakadanapàda-sàstra) gồm 18 quyển, do ngài Thế Hữu biên soạn.
g) Thân túc luận (Abhidhamma-Vijnànakàyapàda-sàstra) gồm 16 quyển, do ngài Devasarman dịch, khoảng sau Phật diệt độ 100 năm.

Đến thời vua Kaniska, các học giả Hữu bộ lại chế tác lại giáo nghĩa của "Phát trí luận" dưới nhan đề "Đại tỳ bà sa luận" (Abhidhamma -mahàvibhàsà -sàstra) gồm 200 quyển.

Và bộ "Đại tỳ bà sa luận" được xem như là nền tảng giáo lý của Hữu bộ. Nhưng đến thời đại ngài Nàgàrjuna (khoảng đầu thế kỷ thứ III. Tây lịch, tức sau Phật diệt độ hơn 700 năm), thì bộ luận này bị phản ứng bởi tư tưởng của ngài Nàgarjuna, Deva và Ràhula-bhadra. Trước viễn cảnh đó, Hữu bộ nỗ lực củng cố tư tưởng và học thuyết của mình bằng cách biên soạn lại một số luận thư để làm căn bản cho giáo nghĩa của Hữu bộ, thay cho luận thư Đại tỳ bà sa. Gồm có:

- Đề bà sa luận (14 quyển) do ngài Sitapàni soạn.
- A tỳ đàm tâm luận (4 quyển) do ngài Dharmasri soạn. (45)
- A tỳ đàm tâm luận kinh (Abhidhamma-hrdaya-sastra-sutra) (6 quyển) do ngài Upasànta sáng tác.
- A tỳ đàm tâm luận (11 quyển) do ngài Dharmaràta trứ tác. (46)

Đến khoảng thế kỷ thứ V. TL, lại có các bộ luận như:

- Nhập A tỳ đạt ma luận (Abhidhammavatàrasastra) (2 quyển) do ngài Skandila trứ tác.
- A tỳ đạt ma câu xá luận (Abhidhamma-kosa-sastra) (30 quyển) do ngài Vasubandhu trứ tác.
- A tỳ đạt ma thuận chính lý luận (Abhidhamma Samayapradìpika-sastra- 80 quyển) và bộ A tỳ đạt ma hiển tôn luận (Abhidhamma Samayapradìpika-sastra- 4 quyển). Hai bộ này do ngài Samghabhadra biên soạn với mục đích phê bình "Câu xá luận" của ngài Vasubandhu. Tuy nhiên, "Câu xá luận" đã chiếm ưu thế và được tôn vinh một thời. (xem phần tóm tắt Câu xá ở sau).

* Về luận thư của Phật giáo Mahayana

Như đã trình bày, trong hệ thống luận thư của Mahayana tuyệt nhiên không có sự phê phán, phê bình hay chống trái lẫn nhau, mà chỉ có sự mở rộng và bổ sung cho nhau. Do đó, về luận thư, có thể tóm tắt các trứ tác, biên soạn theo mỗi tác giả như sau:

Các luận thư Phật giáo thuộc hệ thống Hinayana và Mahayna:

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Vasumitra:

1/ Dị bộ tôn luân luận (1 quyển) do Huyền Tráng dịch.
2/ Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát sở tập luận (10 quyển).

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Asvaghosa:

1/ Đại tôn địa huyền võ bản luận (Màhayana bhùmigukya- vàcàmula-sutra- 20 quyển), do ngài Paramàrtha dịch.
2/ Đại thừa khởi tín luận (Mahayana - Sraddhot pàdasutra - 1 quyển), ngài Paramàrtha dịch đời Hậu Đường, ngài Siksànanda dịch lại thành 2 quyển.
3/ Đại trang nghiêm luận kinh (Mahalankàrasutrasàstra- 15 quyển), ngài Kumàravjiva (La Thập) dịch.

... và một số kinh luận khác (47).

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Nàgàrjuna:

1/ Trung quán luận (Madhyadhijàna - sastra - 4 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
2/ Thập nhị môn luận (Dvàdasa - nikàya - sàstra - 1 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
3/ Đại trí độ luận (Mahàprajnàpàramità - sàstra - 100 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
4/ Thập trụ tỳ bà sa luận (Dasabhùmi - Vibhàsà - sàstra - 17 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
5/ Thập bát không luận (Astàdasàkasa - sàstra - 1 quyển) do ngài Paramàrtha dịch.
6/ Đại thừa phá hữu luận (Mahayana bhavabhoda - sàstra - 1 quyển) do ngài Danapàna dịch.
7/ Bồ đề tư lương luận (6 quyển) do ngài Dharmagupta dịch.
8/ Bồ đề tâm ly tướng luận (Laksanavimakata - bodhihrdaya - sàstra - 1 quyển) do ngài Dànapàna dịch.
9/ Hối tránh luận (Vivàdasamama - sàstra - 1 quyển) do ngài Gautama - Ruci dịch.
10/ Phương tiện tâm luận (1 quyển) do ngài Cát-ca-da dịch. ... Và một số kinh, luận khác. (48)

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Deva

1/ Bách luận (Sata sàstra - 2 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
2/ Bách tự luận (Sàtàksara - sàstra - 1 quyển) do ngài Gautama - Ruci dịch.
3/ Quảng bách luận (Sata - sàstra Vaipulya - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Maitreya (49)


1/ Du già sư địa luận (Yogàcàrya - bhùmi - sàstra - 100 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Đại thừa trang nghiêm luận kinh (Mahàyana - lankàra - sàstra - ?) do ngài Paramità dịch.
3/ Thập địa kinh luận (Dasabhùmikà - sàstra - ?) do ngài Bodhi Ruci (Bồ Đề Lưu Chi) dịch.
4/ Trung biên phân biệt luận (Madhyàntavibhàga - sàstra - 2 quyển) do ngài Paràmàrtha (Chân Đế) dịch.

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Asanga:

1/ Hiển dương Thánh giáo luận (Prakaranàryavàca - sàstra - 20 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Nhiếp Đại thừa luận (Màhayana - samparigraha - sàstra - 3 quyển) do ngài Paràmàrtha dịch.
3/ Đại thừa A tỳ đạt ma tập luận (Mahayànabhi - dharma - sangìti - sàstra - 7 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
4/ Kim cang Bát nhã Ba la mật đa (Vajraprajnà - Paramità - sutra - sàstra - 3 quyển) do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.
5/ Thuận trung luận (2 quyển) do ngài Prajnà Ruci dịch

* Các luận thư được trước tác bởi ngài Vasubandhu

1/ Câu xá luận (Abhidhamma - kosa sàstra - 20 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Câu xá luận bản tụng (1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
3/ Duy thức tam thập tụng (Vidyàmàtrasid - dhitridasa - sàstra - kàrika - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
4/ Duy thức nhị thập tụng luận (Vidyàmàtra - Vimsatisastra - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
5/ Đại thừa bách pháp minh môn luận (Mahàyàna - satadhar - mavidyàdvàra - sàstra - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
6/ Đại thừa ngũ uẩn luận (Mahàyànavaipulya - Pancaskandhaka - sàstra - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
7/ Nhiếp Đại thừa luận thích (Màhàyanasampari - graha - sàstra - 15 quyển) do ngài Paranàntha dịch.
8/ Thập địa kinh luận (Dasabhùmika - sùtra - sàstra - 12 quyển) do ngài Bodhi Ruci dịch.
9/ Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh luận (Vajnaprajnàparamità - sùtra - sàstra - 3 quyển) do ngài Bodhi Ruci dịch.
10/ Diệu pháp liên hoa kinh ưu ba đề xá (Sad dharma - pundarìka - sùtra - sàstopadesa - 2 quyển) do ngài Bodhi Ruci dịch.

... Và một số kinh luận khác. (50)

Trên đây, chúng ta vừa khảo sát sơ lược về sự hình thành và quá trình phát triển tâm lý học Phật giáo qua các thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Luận thư, và Phật giáo Đại thừa (Mahayana). Tất nhiên, như đã được giới hạn ngay từ đầu, chúng ta chỉ khảo sát về tâm lý học Phật giáo qua góc độ của Luận thư (Luận tạng), đặc biệt là hệ thống triết học Duy thức của Mahayana. Tuy nhiên, để có một cái nhìn tổng quát về tâm lý học Phật giáo; ở đây, người viết xin tóm lược một số nội dung cơ bản về tâm lý học Phật giáo qua ba luận thư như sau:

1- Thứ nhất: phần tóm lược về Thắng pháp luận (Abhidhammatthasangaha) của Thượng Tọa bộ (Sthaviravàda hay Theravada).

2- Thứ hai: phần tóm lược về Câu xá luận (Abhidhamma - kosa - sàstra) của Hữu bộ (Sarvàstivàdin) hay còn gọi là Nhất Thiết Hữu bộ.

3- Thứ ba: Phần trình bày về Duy thức tam thập tụng (Vidyàmàtrasid - dhitridasa - sàstra) của Đại thừa Phật giáo (Mahayana). Phần này sẽ được trình bày cụ thể trong nội dung của tác phẩm (xem mục II.2 chương 2).

* * *

CÁC HỆ THỐNG TIÊU BIỂU VỀ TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

A/ Đại cương về Thắng pháp luận (Abhidhammatthasangaha)

Bộ "Thắng pháp tập yếu luận" này là một công trình khảo cứu, tóm tắt và hệ thống hóa nội dung của bảy bộ luận thuộc Hinayana bởi một vị Tăng sĩ người Ấn Độ, tương truyền là ngài Anuruddha (A Nậu Đa La) (51)

Về mức độ chính xác của công trình tóm tắt và hệ thống hóa này không thể hoặc khó có thể minh định rõ ràng, vì chúng ta không có điều kiện để đọc hết bảy bộ luận đó, ít ra là về phía người viết. Tuy nhiên, theo truyền thống Nam phương Phật giáo, thì bộ "A tỳ đàm thắng pháp luận" này là một trong những nền tảng triết học cơ bản nhất của Nam phương Thượng Tọa bộ. Do đó, chúng tôi dựa vào bộ luận này - và đặc biệt là thông qua bản dịch của HT. Thích Minh Châu (52), một học giả có thẩm quyền chuyên môn về tạng thư Pàli, ít nhất là đối với người Việt Nam - để trình bày đại cương về tâm lý học Phật giáo theo quan điểm của Nam phương - Thượng Tọa bộ.

(I) DÒNG CHẢY CỦA TÂM THỨC QUA A TỲ ĐÀM THẮNG PHÁP TẬP YẾU

1- Tâm bất thiện (Akusalacitta): Có ba loại tâm cơ bản là: tâm tham, tâm sân và tâm cuồng si.

2- Tâm vô nhân (Ahetukacitta): Có ba loại: Tâm quả bất thiện vô nhân, tâm quả thiện vô nhân và tâm duy tác vô nhân.

3- Tâm dục giới bất tịnh: Có hai loại: Tâm bất thiện và tâm vô nhân.

4- Tâm (hữu nhân) dục giới thanh tịnh: Có ba loại: tâm thiện, tâm quả, tâm duy tác. Cả dục giới thanh tịnh và bất tịnh đều thuộc về tâm hữu nhân.

5- Tâm sắc giới (Rùpàvacaracitta): Có ba loại: Tâm thiện, tâm quả, và tâm duy tác.

6- Tâm vô sắc giới (Arùpàvaracitta): Có ba loại: tâm thiện, tâm quả, và tâm duy tác. Cả ba loại tâm trên của sắc giới và vô sắc giới đều gọi là tâm thế gian (hiệp thế)

7- Tâm đạo siêu thế (Lokattaracitta): Có 4 loại: tâm của cảnh giới Sơ thiền (ly sanh hỷ lạc), Nhị thiền (định sanh hỷ lạc), Tam thiền (ly hỷ diệu lạc) và Tứ thiền (xả niệm thanh tịnh) (53)

8- Tâm quả siêu thế (dị thục siêu thế): Có 4 loại: tâm của quả vị Sơ thiền (Dự lưu quả), Nhị thiền (Nhất lai quả), Tam thiền (Bất lai quả) và Tứ thiền (A la hán quả)

Cả tâm đạo siêu thế và quả siêu thế gọi chung là tâm siêu thế. Và, cả tâm thế gian (hợp thế) và siêu thế gian (siêu thế) được gọi là Tâm (citta). 8 phân loại trên của tâm được gọi là Tâm Vương, tức là cội nguồn của Tâm.

(II) TÁC NĂNG TRONG DÒNG CHẢY CỦA TÂM (TÂM SỞ HỮU)

1- Tâm sở biến hành (Sabbacittasàdhàranà). Có 7 loại tâm sở: xúc (Phasso), thọ (Vedanà), tưởng (Sannà), tư (Cetanà), nhất tâm (Kaggatà), mạng căn (Jivitindriyam) và tác ý (Manasikàra)

2- Tâm sở biệt cảnh (Akusalacetasika). Có 6 loại tâm: Tầm (Vitakka), tứ (Vicàra), thắng giải (Adhimokkho), tinh tấn (Viriyam), hỷ (Piti) và dục (Chando). Cả tâm sở hữu biến hành và biệt cảnh gọi là sở hữu tự (chủ thể), tha (đối tượng).

3- Tâm sở bất thiện (Akusalacetasika). Có 14 loại:

- Tâm si mê (Moho), vô tàm (Ahirikam), vô quí (Anottapam), trạo cử (Uddhacca).
- Tâm tham (Lobho), tà kiến (Ditthi), kiêu mạn (Màno).
- Tâm sân (Doso), tật đố (Issà), bỏn xẻn (Macchariyam), hối quá (Kukhuccam), hôn trầm (Thina), thùy miên (Middha) và nghi (Viccikicchà).

4- Tâm sở thiện (Tịnh quang) (Sabhanacetasika). Có 19 loại:

Tín (Saddhà), niệm (Sati), tàm (Hiri), quí (Ottappam), không tham (Alobho), không sân (Adoso), xả ly (Tatramajjhattatà: trung tính), tâm sở thư thái (Kàyapassaddhi), tâm thư thái (Cittapassaddhi), tâm sở khinh an (Kàyalahùta), tâm khinh an (Cittalahutà), tâm sở nhu hòa (Kàyamudutà), tâm nhu hòa (Cittamudutà), tâm sở thích ứng (Kàyakamm-annatà), tâm thích ứng (Cittakammannatà), tâm sở tinh cần (Kàyapàgunnatà), tâm tinh cần (Cittapàgunnatà), tâm chính trực (Cittujjukatà).

(III) HIỆN HỮU (PHÁP) QUA A TỲ ĐÀM THẮNG PHÁP TẬP YẾU

1- Sắc cơ bản (Bhùta - rupam). Có 4 loại: Đất (Pathavi - dhàtu), nước (Àpo - dhàtu), gió (Vàyo - dhàtu) và lửa (Tejo - dhàtu).

2- Sắc chủ thể (Pasàda-rùpam). Có 5 loại: mắt (Cakkhu), tai (Sotam), mũi (Ghànam), lưỡi (Jihà), và thân (Kàyo).

3- Sắc đối tượng (hay Hành cảnh, Gocararùpam). Có 5 loại: Sắc (Rùpam), thanh (Saddo), hương (Gandho), vị (Raso), xúc (Photthabbam).

4- Sắc bản tính (Bhàvarùpam). Có 2 loại: Nam tính (Purisattam); nữ tính (Itthattam).

5- Sắc tâm sở y (Hadayrùpam). Llà cơ cấu nền tảng của tâm thức (Hadayavatthu).

6- Sắc sinh mạng (Jivitarùpam). Là mạng căn, tức là thân thể và các quan năng (Jivitindriyam).

7- Thực sắc (Ahàra-rùpam). Là đoàn thực (kabalinkàro-àharo) cũng gọi là thực tố.

Sắc tâm sở y, sắc sinh mạng và thực sắc còn được gọi là thân biểu và khẩu biểu.

Như vậy 18 loại sắc pháp trên được phân loại theo tự tánh (Sabhàvarùpam), tự tướng (Salakkhana - rùpam), sở tạo (Nipphannarùpam), sắc sắc (Rùpa - rupam) và tư duy sắc (Sammasanarùpam).

Sắc là vật chất, là những gì thuộc vật lý. Do đó tự tánh sắc là những gì có tính chất nóng , lạnh, cứng, ướt, âm, dương v.v... Sắc tự tướng là chỉ cho vô thường, vô ngã của sắc tướng. Đó là sự diễn biến của sinh, trụ, dị, diệt; thành, trụ, hoại, không... Các pháp thuộc về tâm (tâm lý) và sắc (vật lý) gọi chung là Hữu vi pháp (Sankhatam). Và ngược lại, các pháp vượt ngoài diễn biến chế định của tâm lý và vật lý, không bị giới hạn, chế định bởi sinh và diệt, thì được gọi là Vô vi (Asamskrta). Các pháp hữu vi được gọi là Tục đế, các pháp vô vi (như Niết Bàn) được gọi là Chân đế.

(IV) Nhận xét chung về Thắng pháp luận

Ở trên chúng ta vừa trình bày tóm lược một số thể cách và các danh từ diễn đạt cơ bản về tâm lý học theo Thắng pháp tập yếu luận của Nam phương Thượng Tọa bộ. Về các danh từ sẽ được giải thích rõ chung với phần trình bày về Duy thức - Tâm lý học của Đại thừa, trong trường hợp của những khái niệm đồng nghĩa. Ở đây, chỉ trình bày tóm tắt một số nội dung "tư tưởng" cơ bản của luận thư này.

Trước hết, chúng ta thấy rằng, Thắng pháp luận cắt nghĩa và giải minh tâm lý học qua bốn khái niệm cơ bản, đó là: (a) Tâm (Citta), (b) tâm sở (Cetasika), (c) sắc (Rùpa) và (d) Niết bàn.

Qua bốn khái niệm trên, con người theo Thắng pháp luận trước hết là một con người bao gồm tâm thức (tâm lý) và sắc pháp (vật lý). Điều này tương tự như hợp thể của 5 uẩn (Pancaskandhas) trong Phật giáo Nguyên thủy, hay chính những giáo huấn của Phật trong Nikàya. Tuy nhiên, trong năm uẩn, Sắc uẩn (Rùpa) thuộc về sắc pháp (thế giới vật lý), 4 uẩn còn lại (thọ, tưởng, hành và thức) thuộc về tâm pháp (thế giới tâm lý). Trên cơ sở của Tâm pháp này, luận thư đã đi sâu vào phân tích thế giới của tâm lý và các hiện tượng diễn biến của nó qua 89 hay 121 loại tâm và 52 tâm sở.

Sự phân tích này được dựa vào cảnh giới (trạng thái) của tâm lý qua các cấp độ như: cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc và siêu thế, hay được cụ thể hóa theo tác năng hoạt động như: tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô nhân, tâm tịnh quang; hoặc như: tâm thiện, tâm dị thục, tâm duy tác - Theo tác năng dẫn khởi sự tái sinh hay không... Bên cạnh đó, các loại tâm sở (tác năng của tâm vương) như: xúc, thọ, tưởng, tư, mạng căn, nhất tâm và tác ý luôn luôn cùng hiện khởi cùng với sự tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân (5 căn). Với sự phân tích chi tiết như thế, luận thư Abhidhamma đã xây dựng lên một lộ trình tâm (Cittavithi) thông qua sự sinh và diệt trong 16 sát na tâm:

1- Hữu phần chuyển động (Bhavangacalana) (sinh khởi, rung chuyển)
2- Hữu phần dừng nghỉ (Bhavangupaccheda) (sự đứng yên)
3- Ngũ môn hướng tâm (Pancadvàràvajjana) (5 căn hướng tâm)
4- Nhãn thức (hay các thức) (Cakkhuvinnana) (các thức hiện hữu)
5- Tiếp thọ tâm (Sampaticchana) (cảm thọ)
6- Suy đạc tâm (Santirana) (suy thức)
7- Xác định tâm (Votthapana) (chuyển động 7 sát na tâm)
8-14- Tốc hành tâm (Javana)
15-16- Đồng sở duyên tâm (Tadàlambana) (cùng sinh khởi...)

Đây là lộ trình của tâm, nó là sự hiện khởi và hoàn diệt của tất cả các hiện tượng và diễn biến tâm lý. Sự khám phá này là một cống hiến vĩ đại của luận thư Abhidhamma cho ngành khảo cứu Tâm lý học nói chung và Tâm lý học Phật giáo nói riêng.

Một điểm nổi bật kỳ vĩ khác, đó là khái niệm Kiết sinh thức (Patisandhi). Khái niệm này diễn đạt về sự vận hành của tâm trong điểm khởi đầu và kết thúc của đời sống con người, cũng còn gọi là "ý niệm tối sơ" của sinh linh vạn hữu (Sentient beings). Nó là sức mạnh các nghiệp thức (nghiệp lực) và vận hành dưới hình thức của những năng lượng tâm lý (mental energy), duy trì đời sống tâm thức của con người và các loài hữu tình khác. Mặc dầu vấn đề này vượt ngoài khả năng tri giác của tri thức thường nghiệm, song, nó có thể được nhận thức trong các cảnh giới của thiền định ở tầm cao. Do đó, sự hiểu biết về Kiết sanh thức là điều cần thiết cho con người và cũng là điều mà các triết gia luôn luôn tìm kiếm.

Con người và thế giới quan của con người là Dục giới, tức thế giới của những sinh linh, khát vọng trần tục. Do đó, muốn biết được hiện hữu của Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới, tất yếu phải đi vào hiện quán (thiền định), thuật ngữ gọi là Vipassanà (Minh sát tuệ). Vì lẽ, những cảnh giới siêu hình đó vốn thoát hiện ngoài tri thức, luận lý hay phán đoán của con người; nó chỉ có thể được cảm nhận và hiển thị bởi trong thiền định. Và để đạt được những cảnh giới đó, đòi hỏi con người một sự nỗ lực tối cao, vượt qua mọi cảm nhiễm trần tục của mạng căn và ý thức phân biệt. Đây là nội dung của Định học trong luận thư Abhidhamma.

Về mặt giải thoát, luận thư, như đã trình bày, đề cập rất cụ thể về tác năng hoạt động của tâm theo khuynh hướng thiện, bất thiện và vô nhân (tâm lơ lửng không tiến đến mục đích cũng không lui về nguyên động lực). Tâm thiện là tâm đưa con người đến gần sự giải thoát, tâm bất thiện đưa con người đến khổ đau, và tâm tịnh quang (Sobhanacitta) hay tâm sáng suốt (tuệ giác) đưa con người đến giải thoát, giác ngộ. Đây là nội dung của Giới học và Tuệ học trong luận thư Abhidhamma.

Từ ba phương diện trên cho thấy rằng Abhidhamma là nền tảng cơ cấu của tư tưởng triết học Phật giáo sau thời Phật diệt độ. Điểm đặc biệt của nó là giải minh hiện hữu qua lăng kính của đệ nhất nghĩa đế (Paramatthasacca), nghĩa là hiện hữu được nhìn từ tự tướng của duyên sinh tương tác - cái căn nguyên để thiết lập nên một tổng tướng, chứ không phải là từ cái diện mạo bao quát của mỗi mỗi sự thể trông có vẻ như độc lập, cô liêu.

Và cái mục đích tối hậu của luận thư Abhidhamma là dùng phương tiện hiện quán để đưa con người đi vào thăng chứng Niết bàn như đã trình bày trong 4 tâm quả siêu thế. Đó chính là sự đoạn diệt 14 bất thiện tâm hay nói cụ thể là: Tham, sân và si. Đây là lộ trình tiêu biểu của tâm lý học Phật giáo được trình bày qua Thắng pháp luận của Nam phương Thượng Tọa bộ.

B/ Đại cương về Câu xá luận (Abhidhamma - kosa - sàstra)

Luận thư Câu xá, như đã đề cập, là một luận thư tổng hợp và tiêu biểu cho Phật giáo Hinayana (Tiểu thừa), do ngài Vasubandhu trước tác và biên soạn. Mục đích ra đời của luận thư là: thống nhất giáo nghĩa của Hữu bộ, và xác định lập trường chính của Phật giáo. Luận thư Câu xá đã được HT. Thích Thiện Siêu, một học giả có thẩm quyền chuyên môn về Hán tạng, dịch ra tiếng Việt (54), chúng ta có thể tìm hiểu cụ thể hơn. Ở đây, chỉ trình bày tóm tắt nội dung đại cương của Câu xá.

Theo bộ Câu xá luận (30 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch, được phân loại như sau:

I- CÂU XÁ LUẬN

1/ Giới phẩm (2q) —> Nói về thể tánh của hiện hữu.

2/ Căn phẩm (5q) —> Nói về tác năng (dụng) của hiện hữu.

3/ Thế gian phẩm (5q) —> Quả Phân tích

4/ Nghiệp phẩm (6q) —> Nhân rõ về các

5/ Thùy miên phẩm (3q) —> Duyên pháp - hữu vi

6/ Hiền thánh phẩm (4q) —> Quả Phân tích

7/ Trí phẩm (2q) —> Nhân rõ về các

8/ Định phẩm (1,5q) —> Duyên pháp vô vi.

9/ Phá ngã phẩm (1,5q) —> Luận về lý vô ngã(anatta)

II- HIỆN HỮU (CÁC PHÁP) QUA CÂU XÁ LUẬN

Hiện hữu - Thế giới tâm lý và vật lý, hay thế giới của sự vật hiện tượng (The world of phenomena) của cả tâm lý và vật lý cũng gọi là Nhất thiết pháp, được phân chia thành hai loại là Hữu vi pháp và Vô vi pháp.

Hữu vi pháp là những hiện hữu được được diễn ra trong vòng nhân quả, bị chi phối và giới hạn bởi không gian, thời gian; bởi sinh, trụ, dị diệt; bởi phân ly phi tán v.v... Và ngược lại, những hiện hữu vượt ngoài các vấn đề trên, thuộc về Vô vi pháp.

a) 72 Hữu vi pháp

1/ Sắc (rùpa) pháp: Có 11 loại: bao gồm 5 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), 5 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và vô biểu sắc (hiện hữu của phi vật thể). Năm căn thuộc chủ thể, nhận thức; 5 trần thuộc đối tượng được nhận thức.

2/ Tâm (citta) pháp: Có một loại là Tâm vương (citta), nó hiện hữu vừa như một tổng thể phổ quát (universal), vừa như một đơn vị nền tảng đặc thù (particular).

3/ Tâm sở (cetasika) pháp: Có 46 loại:

- 10 Đại địa pháp: Thọ, tưởng, tư, xúc, dục, tuệ, niệm, tác ý, thắng giải, thiền định (tam ma địa).
- 10 Đại thiện địa pháp: Tín, cần, xả, tàm, quý, vô tham, vô sân, bất hại, khinh an, bất phóng dật.
- 6 Đại phiền não: Vô minh, phóng dật, giải đãi, bất tín, hôn trầm, trạo hối.
- 2 Đại bất thiện: Vô tàm, vô quí.
- 10 Tiểu phiền não: Phẫn, phú, san, tật, não, hại, hận, xiểm, cuống, kiêu.
- 8 Bất định pháp: ác tác, thụy miên, tầm, tứ, tham, sân, mạn, nghi.

4/ Tâm bất tương ưng hành: Có 14 loại: Đắc, phi đắc, mạng căn, đồng phận, vô tưởng định, vô tưởng quả, diệt tận định, sinh, trụ, dị, diệt, sanh thân, cú thân, văn thân.

b) Ba Vô vi pháp: Hư không, trạch diệt và phi trạch diệt.

75 pháp trên luôn luôn được diễn ra theo các quan hệ mật thiết trong thế giới tâm lý của con người như sau:


Về các danh từ (chuyên môn) trên, sẽ được giải thích cụ thể trong phần triết học Duy thức (xem Tam thập tụng luận giải - phần sau).

Trong các phẩm "Thế gian", "Nghiệp" ... luận thư cũng đề cập khá rõ về Nhân quả - Nghiệp báo, động cơ của luân hồi qua 12 nhân duyên, và các qui luật chi phối hữu tình thế gian (The world of sentient beings)...

Ở các phẩm "Hiền thánh", "Trí", "Định"... luận thư cũng biện biệt rõ về lộ trình tâm qua nhiều mức độ thấp, cao...


* * *

NHẬN XÉT CHUNG

Qua phần giới thiệu cấu trúc của Câu xá luận, một luận thư tiêu biểu của Nhất thiết hữu bộ (gọi tắt là Hữu bộ), chúng ta thấy rằng giữa luận thư Câu xá và Thắng pháp có những điểm giống nhau trong quan điểm về con người và thế giới. Sự giống nhau đó nằm ngay tại những phần quan trọng nhất của luận thư như: Tâm, tâm sở, sắc pháp, tâm thiện, tâm bất thiện, nhân quả lưu chuyển và hoàn diệt, và Niết bàn theo bốn quả vị Thanh Văn (Sàvaka). Còn sự khác biệt chỉ diễn ra ở cách trình bày là chính mà không phải ở nội dung.

Điều này cho thấy cả hai luận thư tiêu biểu trên ảnh hưởng rất sâu đậm những giáo huấn của Phật được trình bày cụ thể trong kinh tạng Nikàya. Hay nói đúng hơn, các luận thư ra đời như là những tổng hợp ngắn nhất và được hệ thống hóa thành những khán thư cô kết, hiện thân từ Nikàya. Cho đến các luận thư của Mahayàna (Đại thừa Phật giáo) (sẽ trình bày ở phần nội dung chính của tác phẩm này) cũng đều như vậy. Sự khác biệt duy nhất trong các hệ thống luận thư Phật giáo là sự mở rộng hoặc thu hẹp một số khái niệm "cổ điển" được Đức Phật dạy trong Nikàya hay kinh tạng của Phật giáo Nguyên thủy mà thôi. Tất nhiên, đó là những khái niệm rất cơ bản.

Một điểm khác cũng cần ghi nhận đó là tại sao các luận thư được xem là những tác phẩm cô kết ? Bởi lẽ, thời Đức Phật còn tại thế, đối tượng thuyết giáo, địa điểm thuyết giáo ... của Ngài hoàn toàn khác nhau. Do đó, mỗi đối tượng cần có những giáo lý riêng lẻ, đặc thù như kích cỡ của những đôi chân cần có những đôi giày lớn, nhỏ khác nhau. Vì thế, những lời dạy của Phật trong suốt 49 năm là những pháp thoại tùy thuộc vào tình thức và trình độ của chúng sinh, nó mang tính cách thực tiễn, có lúc sâu sắc khó hiểu (đối tượng trí thức), có lúc mộc mạc đơn sơ dễ cảm nhận (đối tượng bình dân), và có lúc chỉ dành riêng cho bậc thánh trí (A La Hán, Bồ Tát, Thiên Chúa, thần linh), như những pháp thoại mà Phật giảng trên cung trời, dưới long cung, hay ngoài hải đảo xa xôi... và được ghi lại bởi các Bồ Tát. Điều này vượt ngoài sự hiểu biết của người trần, những kẻ cuồng si đang lang thang dong ruỗi với đói, lạnh, nóng, khát, được, mất, hơn, thua...

Do đó, mỗi luận thư được xem như một tập đại thành về một vấn đề nào đó được truyền dạy bởi Đức Phật. Đây là ý nghĩa "cô kết" hay "hệ thống hóa" của luận thư.

Một điều khác nữa là luận thư không được lập thành theo một tiêu chí nhất định và chung nhất, mà ngược lại, nó hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên xứ sở, đất nước, thời đại, con người ..., đây là lý do khác biệt, đồng - dị của luận thư.

Tuy nhiên, những gì được nói ra, được làm nên bởi luận thư đều hướng về một mục tiêu duy nhất, đó là đưa con người (chúng sinh của trí tuệ) đi vào hiện quán - thiền định, để từ đó thoát ly mọi sầu, bi, khổ, ưu, não... Đây là con đường truyền thống, duy nhất của Phật giáo khả dĩ "đưa người sang sông".

Trên đây chúng ta vừa lược khảo rất khái quát về hệ thống luận thư của Thượng Tọa bộ và Nhất thiết hữu bộ thuộc Phật giáo Hinayana. Điều này được xem như là tiền đề để đi vào khảo sát và phân tích luận thư của Đại thừa (Mahayàna) theo con đường tìm hiểu Tâm lý học - Phật giáo. (55)

Thích Tâm Thiện
Trích chương 1 phần 2 trong Tâm lý học Phật giáo
Nguồn: http://maxreading.com/sach-hay/tam-ly-hoc-phat-giao/phan-ii-tam-ly-hoc-phat-giao-14454.html#top
CÁC BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ



TRAO ĐỔI CÙNG BẠN VỀ BÀI VIẾT
Comments
0 Comments

Không có nhận xét nào:

Lời thưa... Đóng lại Cảm ơn bạn đã đọc bài viết:
- Có ý kiến gì xin cùng nhau trao đổi.
- Viết bằng tiếng Việt có dấu để dễ đọc hơn.
- Nếu không đăng nhập blog, vui lòng ghi tên thật để tiện trao đổi.
Xin chào và chúc sức khỏe!

Google Suy nghiệm Phật học

Bài đăng mới nhất